KEBACPHUOC
by on July 21, 2011
53 views
<p><font color="#675B62" face="arial" size="2">Như đã nói từ trước, thuyết
Luân Hồi thật sự từ ngàn xưa đã lan tràn hầu như khắp thế giới, nhất là
các nước ở Á Châu. Nhiều tài liệu sách vở nói về thuyết luân hồi đã ảnh
hưởng không nhiều thì ít lên các tôn giáo về sau.<br><br>      Trong
cuốn Du Nirvana Indien, Obry ghi nhận rằng: "Luân hồi là một triết
thuyết tôn giáo lâu đời nhất, đã lan tràn khắp thế giới. Tín ngưỡng này
phát triển mạnh vào thời cổ đại khiến một nhà Thanh giáo uyên thâm phải
lo lắng quan tâm" theo Schopenhauer thì thuyết luân hồi bàng bạc trong
dân chúng Ai Cập cổ đại, ở Hy Lạp và là giáo điều căn bản của tôn giáo
của các tăng ni Gaulois. Thuyết luân hồi cũng có mặt trong một số giáo
phái Hồi giáo ở Hindoustan" (giáo phái Bohrahs); Người Do Thái một số
lớn cũng tin vào sự tái sinh, luân hồi thấy rõ qua kinh Talmud. Trong
kinh này có nhắc đến sự chuyển sinh của linh hồn từ thân xác này qua
thân xác khác như trường hợp linh hồn Abel đã chuyển hoán qua thân xác
Moise sau khi đã nhập vào thân xác Seth. Đối với Ky tô giáo thì vào thời
cổ xưa không hiếm những vị có chức sắc trong giáo hội đã giảng dạy một
số điều liên hệ đến thuyết Luân Hồi Thánh Jerome, cũng như những vị khác
có uy tín vào thời đó như: Thánh Gregory, Arnobius, giám mục Nyasa,
Lactantius.v..v.. Justior Natryr, Origene, Clement d'Alexandrie, giám
mục Mercier đều đã chống lại thuyết Luân hồi mà còn coi đó là vấn đề làm
tăng cường rõ rệt sự phán xét công minh về tội lỗi của mỗi người. Hơn
nữa thật sự Ky tô giáo cũng cho thấy phần nào đề cập đến thuyết Luân hồi
tái sanh khi quan niệm rằng, rồi ra mỗi ngày cũng sẽ gặp lại mình nơi
một thế giới nào đó sau ngày phán xét. Điểm đáng lưu tâm là khoảng vào
thế kỷ thứ 17 khi chăm sóc những người nô lệ da đen bị chợ từ Phi Châu
đến Y Pha Nho và bị đày đọa, vị tu sĩ nổi danh suốt đời tận tụy vì người
khác tên là Pierre Claver đã khuyên nhủ họ những câu bao hàm những gì
thuộc về Luân hồi nghiệp quả như: "Các con hãy nhớ rằng, những gì mà các
con đang trải qua, đang đau khổ thì đó là kết quả của những tội lỗi mà
các con đã gây ra từ trước. Giờ đây, các con nên ăn năn sám hối!". Câu
nói rõ ràng nhắc đến những tội lỗi xa xưa và phải chăng đó là những tội
lỗi từ tiền kiếp của họ. Vì quả thật những người da đen thời bấy giờ bị
bọn thực dân da trắng bắt đem bán làm nô lệ chẳng có làm gì nên tội. Tội
lỗi nếu có chăng chính là tội lỗi do những người da trắng gây ra. Điều
này khiến ta nhớ lại thuyết nguyên tội thường được nhắc đi nhắc lại
nhiều trong Ky tô giáo. Theo Schopenhauer thì "thuyết nguyên tội, được
hiểu như là thuyết phải trả cái tội lỗi của một cá nhân nào đã gây ra
trước đó. Thuyết này thay cho thuyết Di hồn và chuộc tội đã phạm từ tiền
kiếp" (Schopenhauer Metaphysique de la Mort).<br><br>      Khi tìm hiểu
sâu xa hơn qua cuốn Thánh kinh (Bible) của Ky tô giáo thì vô số lời
khuyên bảo răn dạy của Chúa còn nói lên biết bao ý nghĩa thâm sâu về vấn
đề luân hồi về kiếp trước và kiếp sau, về quả báo như sau:<br><br>      - Ai gieo giống chi thì sẽ phải gặt lấy giống ấy (gieo và gặt - 5:13 - 6:18).<br><br>
     - Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả, trái lại,
phải chúc phước. Ấy là vì điều đó mà anh em được gọi để phước lành. (thơ
thứ nhất của Phi e rơ).<br><br>      - Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặp điều tai họa (châm ngôn 22:8)<br><br>      - Những ai tìm điều ác, tất cả sẽ ác đến với nó (châm ngôn 11:27).<br><br>      - Kẻ nào đào hầm thì kẻ đó té xuống đó.<br><br>      - Kẻ nào lăn đá, đá đó sẽ trở lại đè nó (châm ngôn 26:27)<br><br>
     - Kẻ nào bưng tai không khứng nghe tiếng kêu la của người nghèo
khổ thì kẻ đó cũng sẽ lại kêu la mà chẳng có ai đáp lại (châm ngôn
21:13).<br><br>      - Tai họa không hề lìa khỏi nhà kẻ lấy ác trả thiện (châm ngôn 17:13).<br><br>      - Chẳng một tai nạn nào xảy đến cho người công bình. Song kẻ hung ác sẽ bị đầy đau đớn (châm ngôn 12:21).<br><br>
     - Kẻ nào giam cầm kẻ khác thì rồi cũng sẽ bị kẻ khác giam cầm lại.
Kẻ nào sử dụng gương đao, kẻ ấy sẽ bị chết vì gươm đao (thiên
Apocalypse - chương 13).<br><br>      Còn nhiều và nhiều nữa những câu
đầy ý nghĩa tương tự trong Kinh Thánh và đặc biệt hơn nữa, các nhà
nghiên cứu, tôn giáo, kinh điển về Ky tô giáo và Phật giáo đều thấy
những điểm tương đồng đôi khi tưởng chừng như hai tôn giáo là một.<br><br>      Thí dụ Phật giáo có câu:<br><br>      "Ví dầu ai có đi khắp bốn phương trời cũng không tìm thấy được ai là kẻ đáng thương hơn mình.<br><br>      Ấy vậy là do mình đã thương mình.<br><br>      Mình đã thương mình thì cũng đừng làm phiền người".<br><br>Ky tô giáo có câu:<br><br>      "Hãy kính yêu Chúa ngươi với tất cả tấm lòng và cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại ngươi như ngươi vậy"<br><br>      Trong mấy lời khuyên dạy (12:1 - 15:13) có câu:<br><br>      "Ngươi phải yêu kẻ lân cận mình như mình yêu mình vậy".<br><br>      Kinh Phật giáo có câu: "Đem tình thương xóa bỏ hận thù".<br><br>      Kinh Thánh có câu: Đừng để điều ác thắng mình, hãy lấy điều thiện thắng kẻ ác (những lời khuyên 12:1 - 15:13).<br><br>      Hoặc: "Đừng mắc nợ ai chi hết<br><br>      Chỉ mắc nợ về sự yêu thương mà thôi".<br><br>      Hay: "Chớ lấy ác trả ác cho ai<br><br>      Phải chăm tìm điều thiện trước mặt mọi người"<br><br>      Phật giáo có câu: Lấy oán báo oán, oán chất chồng.<br><br>      Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.<br><br>      Ý nghĩa luân hồi quả báo thấy rõ qua các câu sau đây trong kinh thánh:<br><br>
     "Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phước cho kẻ
rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình. Ai tát người má bên này, hãy
đưa luôn má kia cho họ; còn nếu ai dựt áo ngoài của người thì cũng đừng
ngăn họ lấy luôn áo trong. Hễ ai xin, hãy cho và nếu có ai đoạt lấy của
cải của các ngươi thì đừng đòi lại. Các ngươi muốn người ta làm cho
mình thế nào, hãy làm cho người ta thế ấy".<br><br>      Hoặc:<br><br>
     "... Hãy cho, người sẽ cho lại mình; họ sẽ lấy đấu lớn nhận, lắc
cho đầy tràn mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào thì
họ cũng sẽ lường lại cho các ngươi mực đó..."<br><br>      Rõ ràng nhất
về ý nghĩa của vấn đề quả báo được thể hiện ở những câu sau đây khi
Chúa khuyên loài người hãy làm điều thiện để tự mình cứu chuộc tội lỗi
do mình gây ra vì điều đó sẽ giúp tránh được nhân quả:<br><br>      "Hãy
làm điều thiện đối với những kẻ làm hại ngươi rồi ngươi sẽ cứu chuộc
được những tội lỗi do chính ngươi gây ra cho kẻ khác".<br><br>Hoặc:
"Những gì mà ngươi đã gieo rắc thì sẽ được ngươi gặt lấy!" hoặc: "Kẻ nào
gieo sự bất công sẽ gặp điều tai họa (châm ngôn 22:8).<br><br>      Luật nhân quả luân hồi báo ứng thấy rõ trong lời Chúa răn dạy loài người sau đây:<br><br>
     "Sự báo thù ở ngay trong tay ta và ta sẽ trả nợ đó đầy đủ. Bởi vì
mọi tai họa sẽ đến cho kẻ nào chưa giải quyết xong những món Nợ Cũ ấy"<br><br>      Lời răn dạy của Chúa sau đây còn rõ ràng hơn nữa về sự chăm lo điều tốt lành phước đức để dành cho đời sau:<br><br>
     "Hãy răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước đức. Kíp ban
phát, phân chia của cải mình có. Vậy là dồn chứa về Ngày Sau một cái nền
tốt và bền vững cho mình để được cầm lấy sự sống thật" câu" cái "ngày
sau ấy nổi lên ý nghĩa của sự trả vay và phải chăng đó cũng có nghĩa là ở
đời sau hay kiếp sau?".<br><br>      Luật nhân quả đôi khi còn bao hàm,
liên quan đến cả sự phúc đức, nghiệp quả, hành động gây nên bởi cha mẹ,
con cái. Đó là thắc mắc lớn lao của một số tín đồ:<br><br>      "... và
khi Chúa bước qua, ngài trông thấy một người đàn ông bị mù (người này
bị mù ngay từ lúc mới chào đời). Lúc ấy một môn đồ đã hỏi Chúa rằng:
Bạch thầy! Ai là kẻ đã gây lên tội lỗi khiến anh ta bị mù từ lúc ra đời?
Cha mẹ anh ta hay chính anh ta? (John 9:1 - 2 Myitalies).<br><br>
     Như vậy, rõ ràng có mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại giữa
những hành động và hậu quả của những hành động mỗi con người sẽ phải
nhận lấy không sớm thì muộn theo Luật Nhân Quả tự nhiên.<br><br>
     Hiện tượng tái sinh (born again) còn được thấy rõ ở một số đoạn
trong kinh thánh. Điển hình nhất là sự phục sinh của Chúa và những người
chết sẽ sống lại cùng với xác thân của họ. Trường hợp sự tái sinh của
Thánh Jean Baptiste cũng đã được Chúa cho các môn đồ biết qua câu:
"Ellie đã trở lại!" (Mathieu 17:12 - 13).<br><br>      Trong công vụ các
sứ đồ (26:23) có câu: "Chúa Jesus đã được nói đến la đấng được sống lại
trước nhất từ trong những kẻ chết".<br><br>      Trong I phi e rơ
(3:18) có câu " Ngài là người đầu tiên được sống lại với thể thiêng
liêng. Theo quan niệm của những người tin vào thuyết luân hồi thì Chúa
là một vị Đại Bồ Tát hóa thân thân trở lại cõi trần để mong cứu chuộc
loài người. Ngài đã phó sự sống mình làm giá chuộc. Mạng sống con người
hoàn toàn của Jesus đã được hiến dâng để giải thoát nhân loại khỏi sự nô
lệ của tôi lỗi và sự chết (Phi e rơ 1: 18, 19; Ê phê sô 1:7)<br><br>
     Trong Sáng thế kỷ 18:8: Hê bơ rơ 13:2 còn có đoạn nói về sự sống
lại của Chúa Jesus với dấu tích bên hông (có thể được hiểu như là một
hình ảnh của Dấu tích luân hồi) tuy rằng Chúa là Đấng tối cao cả không
còn phải chịu luật luân hồi tái sinh nữa.<br><br>      "... Nhưng vì lẽ
sứ đồ Thô ma đã đặt tay vào lỗ thủng ở bên hông của Giê su, điều đó há
không tỏ cho thấy rằng Giê su được sống lại từ cõi chết với cùng một
thân thể đã bị đóng đinh trên cây khổ hình hay sao? Không đâu, vì Giê su
chi biến dạng hay là mặc lấy hình người bằng xác thịt, giống như các
thiên sứ đã làm trong quá khứ vậy. Để thuyết phục Thô ma rằng ngày chính
là đấng Christ, ngài đã dùng một thân thể mang vết đâm thủng. Ngài đã
hiện ra như là một người thật sự với khả năng ăn uống, giống như các
thiên sứ mà Áp ra ham có lần đã tiếp đãi vậy (Sáng thế Ký 18:8: Hê bơ rơ
13:2).<br><br>      Trong khi Giê su đã hiện ra cho Thôma với một thân
thể giống như thân thể ngài xó lúc ngài bị xử tử, ngài cũng đã mặc lấy
các thân thể khác nhau hiện ra cho các môn đồ ngài. Vì thế Ma ri Ma đơ
len thoạt tiên đã lầm tưởng Giê su là người làm vườn. Có những lần khác
các môn đồ của ngày đã không nhận ra ngài liền được. Trong những trường
hợp đó, không phải hình dạng của ngài đã giúp họ nhận ra ngài, nhưng bởi
một lời nói hoặc cử chỉ nào đó mà họ đã nhận ra ngài (Giăng 20:14 - 16;
21:6,7; Lu ca 24:30,31)<br><br>      Mới đây, (tháng 4 năm 1993), hai
nhà báo Arthur Dale và Jenny Lynn đã tìm thấy một số tài liệu bí mật cổ
xưa (Lưu trữ tại tòa thánh Vatican) nói về đời sống sau khi chết. Hai
nhà báo này đã viết một bài nhan đề: Found: the Vatican's secret files
on life after death, tài liệu này được đăng tải lần đầu tiên sau đó
trong báo Sun ra ngày 13 tháng 4 năm 1993. Theo tài liệu này thì một số
tu sĩ Ky tô giáo đã từng thấy những cõi thế giới kỳ lạ sau cõi chết.
Trong một tập hồ sơ, tài liệu khá dày được tìm thấy trong một nhà kho
lâu đời, nhiều bảng viết tay mà các chữ viết thảo của những vị chức sắc
trng Giáo Hội, mô tả lại những hình ảnh họ thấy về những gì sau khi
chết. Trường hợp cha Carlo Malatesta bị một cơn sốc tim ngất đi rất lâu.
Sau một thời gian cứu chữa, cha Carlo tỉnh dậy (tính ra cha đã hôn mê
trong 40 phút đồng hồ) và đã kể lại những gì mà trong thời gian tim coi
như ngừng đập hay nói khác đi là "đã chết" đó, cha Carlo Malatesta đã
cảm thấy mình nhẹ bổng một cách lạ lùng, rồi cha thấy những người bay lơ
lửng có cánh giống các thiên thần đưa mình đến cái cổng lớn của một nơi
tươi sáng lạ lùng và sau đó lại được các thiên thần đưa cha trở lại thể
xác mình. Trong thời gian Cha Carlo cảm thấy mình nhẹ lâng lâng, chính
lúc đó cha cũng cảm nhận được là mình đã chết rồi nhưng không có sự hối
tiếc, sợ sệt nào hết. Những lời cha Carlo Malatesta kể cha đều ghi lại
rõ ràng trong lưu bút của mình.<br><br>      Riêng đối với loài người
theo Ky tô giáo cũng sẽ có sự sống lại hay tái sinh. Tuy nhiên, không có
nghĩa là tất cả mọi người đều sẽ được sống lại. Kinh thánh đã cho biết
là Giu đa Ích ca ri ốt là kẻ phản chúa Jesus sẽ không được sống lại.
Nguyên nhân y là kẻ đã tạo nhiều điều ác, đã gieo nhiều nghiệp ác nên sẽ
nhận quả ác tương xứng. Đức chúa trời cũng sẽ không làm sống lại những
kẻ nào đã phạm tội cùng thành linh của ngài (Ma thi ơ 12:32; Hê bơ rơ
6:4- 6; 10:26 - 27).<br><br>      Mỗi người theo thứ tự riêng của mình
sẽ được phán xét và sống lại. Sau sự sống lại của đáng Christ thì đến
lượt 144000 người (những môn đồ trung thành của ngài) được sống lại và
họ là những người sẽ sống với đấng Christ trong cõi trời hay nước trời.
Tiếp đến là một số lớn người chết khác được sẽ được sống lại để sống
ngay trogn Đia đàng trên đất. Dĩ nhiên không phải tất cả mọi người đều
được sống lại để bị xét đoán (Giăng 5:29) trong Ngày Phán Xét.<br><br>
     Do đó, Đức Chúa Trời sẽ tạo lại một con người mới cũng bằng xương
bằng thịt với cùng một nhân cách với những đức tính riêng, ký ức và lý
lịch mà người đó đã thu thập cho đến lúc chết. Thân thể mới này sẽ giống
như thân thể mà người ấy đã có trước khi chết. Điều đó giúp cho những
người đã quen biết nhau từ trước có thể nhận ra nhau một cách dễ dàng. Ở
đây, sự tái sinh chi xảy ra một lần và ta có thể bảo rằng mỗi người có
thể xem như có hai lần được sống. Tiền thân sẽ trải qua một lần phải
chết và lần thứ hai sau khi được tái sinh thì hậu thân ấy sẽ có một sự
sống khác tiếp theo đó, ấy là sự sống để sống trong Địa đàng trên đất.
Điều đó xảy ra vào ngày phán xét.<br><br>      Đối với Hồi giáo (Islam)
tuy không có nói đến luân hồi nhưng tôn giáo này cũng nhấn mạnh lại sự
phục sinh của con người. Con người đã được tiền định bởi những hành động
của mình khi đang sống trên cõi thế. Nếu như con người gây tội lỗi thì
sau khi chết sẽ vào Địa ngục để chịu xử phạt. Nơi đó linh hồn sẽ chịu
cảnh đau đớn ê chề cùng với sự hành hạ tra tấn rùng rợn. Nhưng nếu con
người lúc sống tạo sự tốt lành thì khi chết sẽ lên cõi Thiên đàng sung
sướng. Ở đây Chết là đi vào một cái cổng dẫn đến đời sống miên viễn
không còn tái sinh trở lại nữa. Ngày cả kẻ ác, sau khi chết cũng bị đày
xuống địa ngục và ở đó đời đời.<br><br>      Theo kinh Coran của Hồi
giáo thì con người sống là nhờ sự kết hợp của linh hồn và thể xác. Thể
xác và linh hồn sẽ được phục sinh trở lại khi đến ngày phán xét. Ngày
đó, kẻ ác sẽ bị xử phạt xuống cõi địa ngục còn kẻ thiện tâm sẽ được tới
cõi thiên đàng an lạc.<br></font></p>
Posted in: Old Sayings
Be the first person to like this.