KEBACPHUOC
by on July 21, 2011
57 views
<p><font color="#675B62" face="arial" size="2">Sự tái sinh luân hồi được
hiểu đơn giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng rằng có
những vị cao tăng, những vị sư trưởng, khi chết thường có ý nguyện được
tái sinh trở lại để giúp đỡ chúng sinh. Các vị Bồ Tát mặc dù đã thoát
khỏi vòng luân hồi Nhân Quả nhưng họ vẫn muốn được đầu thai trở lại để
hoàn tất ước nguyện cứu độ những kẻ còn chìm đắm trong mê mờ tối tăm ở
cõi thế.<br><br>      Danh từ Hóa Thân được dịch từ chữ Tulkus và được
hiểu như đã nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những vị Bồ Tát
còn muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi còn dịch chữ Hoá Thân
qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những
chúng sinh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ
sự đầu thai trở lại theo ý muốn, vì những người đầu thai này thật sự đã
thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đã đầu thai
rồi, họ vẫn ý thức được rõ ràng về tiền kiếp của mình và biết rằng mình
tái sinh trở lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng
sinh.<br><br>      Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và
nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng (mà chúng tôi
may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về
đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) thì từ năm 1419 Tây
Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời.
Vị này đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã
nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và
hoàn tất những gì mình chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện
các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp
nhiều khó khăn trở ngại.<br><br>      Theo Đại Sư Gedun Truppa thì hóa
thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt
Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ
rõ một vài thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt.
Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch
được 2 năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì
khả dĩ nói lên được sự tái sinh của Đại Sư.<br><br>      Lúc bấy giờ ở
một vùng kế cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu
biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại Sư
đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra
rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại Sư
Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của những vị sư khác trong tu
viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:<br><br>      - Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?<br><br>      Cậu bé nhìn tất cả các thứ rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:<br><br>      - Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.<br><br>
     Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho
cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được
cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.<br><br>
     Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa.
Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư Trưởng với danh
hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn luyện rất kỷ về
giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau này. Gedun Gyatso
rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong
tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:<br><br>      - Thế các người không biết ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?<br><br>
     Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất
chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức,
thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người
từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi người dân ở
Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn
đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh bất
ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại
mình sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để lại
một số di vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc
tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau,
người ta phát hiện được một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra
đời trong một gia đình nghèo. Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ
lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu về đến được chính tu viện để
gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng
ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc
phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết là: "Ngày
mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách". Quả
nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã
nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao
tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện, cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở
tu viện cùng những việc mà lúc sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã
biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với
những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư
trưởng Gedun Gyatso thường dùng và còn chỉ vào một vật thứ ba rồi bảo
rằng:<br><br>      - Vật này ta thường dùng hằng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.<br><br>      Riêng bài kệ, cháu bé đọc song suốt và còn bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"<br><br>
     Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso.
Đây là vị Đại Sư tài ba nỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này
được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sinh và học
hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến
hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa
thân nên các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của
mình. Đại sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh
tướng hung dữ Đại Hãn và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ này đã phong Đại Sư
làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông
Cổ.<br><br>      Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời, lần này vị Đại
Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sinh một lần
nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số di vật và một
bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.<br><br>
     Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai 5 tuổi có
những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé trai này được đưa về tu
viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên biết rằng bé trai
này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ Về sau, bé trai này trở
thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua
được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.<br><br>      Khi Yonsten
Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền
thống như trình bày từ trước để tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của
chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là
Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng cùng với
nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức đến
học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Các vị
Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng
chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt
mấy trăm năm.<br><br> Nhưng rồi tai họa lại xảy đến cho toàn dân vì Tây
Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga và Trung Cộng, ngoài ra
còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy giờ vị Đạt Lai Lạt Ma
thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách để chống đỡ đất
nước nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang nhòm ngó. Ngài biết
trước thế nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa nhưng ngài lại không thể
sống thêm để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung
Cộng tung quân xâm lược, đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ
tôn giáo.<br><br>      Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten
Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác
theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã
chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức
Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh. Từ đó cuộc tìm
kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng
Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một
hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến
các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là
một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh một cây cổ thụ sum xuê. Khi
phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các
nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng lão
hòa thượng vì vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:<br><br>      Tên ngươi là gì?<br><br>      Cháu bé đáp:<br><br>      Tôi là Lhamo<br><br>      Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:<br><br>      Đây là ai?<br><br>      Cháu bé đáp:<br><br>      Đây là Lạt Ma Scra.<br><br>
     Phái đoàn đã biết được một phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu
bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp
tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và
yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13
thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt Lai
Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu
sĩ đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt
Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng
hoàn toàn. Do đó phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dầu
đường sá khó khăn lại thêm quân đội Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối
cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện Potala. Đến năm gần 5
tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14.
Trong suốt 20 năm, vị phật sống này phải được huấn luyện về mọi mặt. Tuy
nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go về giờ giấc,
học hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật giáo...
Trong khi đó, tình hình chính trị không yên. Trung Cộng tìm đủ mọi cách
để gây hấn vì thế năm 1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya
trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây
là những giai đoạn Hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì sự
hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại Sư Gedun Truppa trở đi.<br><br>
     Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời, vị này thường có được ước nguyện
tái sinh trở lại, việc đi tìm cho đúng ai là người Hóa thân của những
vị này là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất 3, 4 năm hay hơn
mới tìm ra được vị hóa thân. Vì thế mỗi khi một vị lãnh đạo tôn giáo cao
cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.<br><br>      Mới
đây các vị sư Tây Tạng trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé 5
tuổi tên là Simon cậu bé này có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp
tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi( viện trưởng của trung tâm Phật giáo
Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đã bước tới nói một câu rất tự nhiên:<br><br>      À! Tôi biết ông nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông thường ở kề cận.<br><br>
     Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo
kiểu người lớn nhưng khi ông này cuối xuống nhìn vào mắt cậu bé Simon và
hỏi lại một câu rằng: "vừa rồi Simon đã nói gì?" thì bé vẫn trả lời:
"tôi biết ông!" vừa nói Simon vừa đưa tay mân mê chiếc còng của tu sĩ
Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.<br><br>      Vị tu sĩ này sau đó, trở lại
hỏi người trong gia đình này về trường hợp của bé Simon thì được cha mẹ
Simon cho biết thêm chi tiết như sau:<br><br>      Bé Simon rất khác
thường nếu so sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời
mây, đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm,
thường tư lự như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện
lạ lùng như tự nhiên nói những lòi tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo
trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để đi xa thì thật sư nơi đó
chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà trong một ngày mà
Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định tới lại bị
lụt lớn, gãy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.<br><br>
     Cậu bé Simon sinh tại California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel khi vị này đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc
Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiện lạ lùng, vị tu sĩ này
trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở trước. Đó là Lạt
Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu thập niên
1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý
nghĩ rằng có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng vì
ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma này và
vị này mỗi khi nói điều gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu
sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đã làm. Sau đó, tu sĩ này đã viết
một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ý quý vị lãnh đạo tu
viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.<br><br>      Sau một thời
gian tìm hiểu, trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết
định gởi bé Simon qua Ấn để tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon
sẽ được giáo dục theo phương pháp và chương trình giáo dục của tu viện
Tây Tạng.<br><br>      Cũng cần biết thêm là trước đó vài năm, tại Tây
Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi ngờ là một
Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một
bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây
Tạng. Sau đó Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm đó
có phải là một Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.</font></p>
Posted in: Old Sayings
Be the first person to like this.